Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4-11-2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” nhấn mạnh: “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân”. Để đạt được những mục tiêu mà Nghị quyết đề ra, cần phải có sự nỗ lực, quyết tâm của cả hệ thống chính trị, của toàn dân, trong đó người thầy đóng một vai trò quan trọng, quyết định sự phát triển của nền giáo dục nước nhà.

Định hướng đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục của nước ta những năm tới đây vừa phù hợp với sự phát triển chung của xã hội toàn cầu vừa nhằm khắc phục, giải quyết những hạn chế về chất lượng giáo dục. Đổi mới giáo dục trong bối cảnh xã hội phát triển nhanh và phức tạp đòi hỏi người trí thức nói chung và người thầy nói riêng phải có tư duy phê phán và giải quyết vấn đề luôn vận động theo nhu cầu của thực tiễn.

NGƯỜI THẦY PHẢI LÀ TẤM GƯƠNG HỌC SUỐT ĐỜI

Ngày nay, việc “học suốt đời” đã trở thành thực tế, các tiến bộ công nghệ cho phép mọi người có điều kiện để học cái mà mình yêu thích nhất ở bất kỳ lứa tuổi nào.

Trong nghề dạy học, chất lượng học tập của học sinh và chất lượng hoạt động sư phạm của thầy có tương quan tỉ lệ thuận với nhau, để đảm bảo chất lượng học tập của học sinh cần quy định về trình độ năng lực của thầy. Vì thế, chuyên nghiệp hóa nghề dạy học là cam kết của ngành đối với xã hội về chất lượng của lực lượng lao động nghề, đó cũng là cách để khẳng định giá trị của nghề sư phạm trong xã hội. Để đáp ứng được yêu cầu đó, người thầy phải trải qua một quá trình học tập và thực hành tay nghề một cách tích cực và kỹ lưỡng, từ đào tạo ban đầu đến bồi dưỡng liên tục trong thực tiễn hành nghề. Tuy nhiên, dù được đào tạo đến trình độ nào người thầy vẫn luôn đứng trước yêu cầu phải tiếp tục học tập và học tập không ngừng nhất là trong kỷ nguyên công nghệ thông tin, tri thức nhân loại gia tăng một cách nhanh chóng.

Trong nghề dạy học, việc học tập của thầy còn mang ý nghĩa như một năng lực nghề bởi chức năng giáo dục ngày nay được nhấn mạnh đến việc dạy cho học sinh cách học. Kinh nghiệm cách học của người thầy là nền tảng để thấu hiểu những khó khăn, những cản trở học tập của học sinh cũng như những ẩn chứa đằng sau các hành vi, biểu hiện học tập bên ngoài của học sinh và đó cũng là những bài học quý để thầy biết cách hướng dẫn học sinh học. Chính vì thế, thầy còn được yêu cầu trở thành chuyên gia về học tập suốt đời với ý nghĩa đó.

NGƯỜI THẦY PHẢI LÀ NHÀ GIÁO DỤC CHUYÊN NGHIỆP

Người thầy là người có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ giáo dục trong các thiết chế giáo dục của xã hội và được trả công cho công việc của mình. Điều này để nhấn mạnh đến trách nhiệm đạo đức, pháp lý của người thầy trong việc thực hiện nhiệm vụ giáo dục. Hơn nữa, người thầy là thành viên của cộng đồng nghề, tức là đảm trách một lĩnh vực hoạt động căn bản trong đời sống để duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội. Vì thế, trách nhiệm với công việc, với nghề là một yêu cầu đạo đức. Ở đây, đạo đức nghề nghiệp bao gồm cả hai khía cạnh: đạo đức với cá nhân, với các đối tượng mà mình phục vụ; và đạo đức với xã hội đã giao phó nhiệm vụ cho mình. Hai khía cạnh này có liên quan mật thiết với nhau, tuy nhiên có sự khác nhau nhất định. Đạo đức với người học thể hiện ở sự tin tưởng, sự quan tâm, yêu thương và đặt kỳ vọng cao hơn đối với người học trong quá trình giáo dục họ. Đạo đức với xã hội thể hiện ở ý thức trách nhiệm, quyết tâm, nỗ lực hoàn thành sứ mệnh, nhiệm vụ được giao, đóng góp vào sự tiến bộ, văn minh của xã hội và sự phát triển của cộng đồng nghề nói riêng.

Vai trò của nhà giáo dục chuyên nghiệp là thực hiện sứ mệnh cải tạo xã hội và phát triển toàn diện học sinh bằng năng lực tư duy và năng lực hành động trên những luận cứ khoa học và nhân văn. Người thầy trước hết phải là nhà giáo dục với hai nhiệm vụ cốt lõi là giáo dục và dạy học, hay giáo dưỡng. Điều này nhấn mạnh trách nhiệm trang bị cho học sinh kiến thức, hiểu biết thế giới khách quan, cách học để học sinh không ngừng phát triển nhận thức, trí tuệ, có thế giới quan khoa học và đồng thời, có trách nhiệm tạo ra những cơ hội hoạt động và giao lưu trong lớp học, trường học và trong cộng đồng để xây dựng sức khỏe thể chất và tinh thần, những xúc cảm và kỹ năng cần thiết, cơ bản cho nhân sinh quan của học sinh. Vì thế, việc hỗ trợ cho học tập và phát triển của học sinh được xem là điều kiện sống còn cho sự thành công của người thầy.

NGƯỜI THẦY PHẢI LÀ NHÀ NGHIÊN CỨU THỰC HÀNH

Trong thực tiễn của nhà trường, lớp học luôn tồn tại những yếu tố có ảnh hưởng không mong đợi đến việc dạy và việc học. Để duy trì và phát triển nhà trường với tư cách là một thể chế xã hội, nâng cao chất lượng hoạt động là một mục tiêu chiến lược. Vì thế, nghiên cứu và giải quyết những vấn đề nảy sinh, cải tạo những yếu tố cản trở là nhiệm vụ thường xuyên của người làm giáo dục. Điều này nhấn mạnh rằng người thầy mới chính là người nghiên cứu và giải quyết những vấn đề của thực tiễn giáo dục ở nhà trường. Đó là lý do chính để đòi hỏi người thầy phải suy nghĩ và hành xử như một nhà nghiên cứu, giải quyết vấn đề của thực tiễn lớp học, thực tiễn nhà trường.

Trong mỗi nhà trường, mục tiêu nâng cao chất lượng luôn thúc đẩy người thầy tìm tòi, đổi mới phương pháp dạy và học và cải tạo những yếu tố có ảnh hưởng tiêu cực đến việc dạy và việc học. Những kết quả nghiên cứu lý thuyết được áp dụng, thử nghiệm vào thực tiễn nhà trường, lớp học cũng sẽ trở nên phổ biến trong các môi trường khuyến khích văn hóa chất lượng. Khi người thầy nghiên cứu, cải tạo thực tiễn giáo dục của nhà trường bằng những tác động sư phạm, do vậy đã trở thành nhà nghiên cứu thực hành, ứng dụng.

NGƯỜI THẦY PHẢI LÀ NHÀ CANH TÂN XÃ HỘI

Nói như nhà triết học chuyên nghiên cứu về tâm lý học thực hành và chuyên về sư phạn Dewey “giáo dục là phương pháp cơ bản của tiến bộ và cải cách xã hội”. Giáo dục bản thân nó là để làm thay đổi, làm mới người học và qua đó làm mới xã hội theo hướng tăng trưởng, tích cực. Người thầy với chức năng giáo dục của mình sử dụng tri thức và kỹ năng sư phạm để làm cho học sinh được giáo hóa, thay đổi và trưởng thành, như là kết quả của quá trình học tập của người học. Công tác đó người thầy không làm đơn độc mà luôn có sự cộng tác, phối hợp và hỗ trợ của các thành phần khác trong xã hội, trước hết là của người học, cha mẹ các em và các đồng nghiệp. Sứ mệnh đó còn nhận được sự bảo trợ của xã hội và của chính quyền. Cùng chung mục tiêu giáo dục thế hệ trẻ, những đề xuất sư phạm dễ dàng nhận được sự ủng hộ, phối hợp của những thành viên khác trong xã hội.

Do đó, vai trò và năng lực sư phạm của thầy còn ở chỗ có khả năng lôi kéo những thành viên khác của xã hội, trước hết là của cha mẹ và các tổ chức xã hội có chức năng giáo dục vào việc tạo ra các môi trường mang tính giáo dục cho người học. Môi trường gia đình, cộng đồng, xã hội trở nên mang tính “giáo dục” hơn vì mục tiêu giáo dục và phát triển của nhà trường cho trẻ em. Thực chất đó là biểu hiện của sự thay đổi ở những người tham gia cộng tác cùng nhà trường trong việc giáo dục trẻ em. Họ tin tưởng và tự nguyện “đầu tư” cho con em mình, cho tương lai của cộng đồng, của đất nước, của nhân loại. Và kết quả là họ cũng thay đổi về nhận thức và việc làm trong giáo dục trẻ em. Trong một chừng mực nhất định, các lực lượng xã hội đã được “giáo hóa” từ tác động của người thầy, nhà trường. Ý thức và trau dồi khả năng sư phạm trong công tác giáo dục đồng nghĩa với việc thu hút và nâng cao trách nhiệm, năng lực giáo dục và các thành phần có sự cộng tác với mình trong việc giáo dục trẻ em.

Trong giai đoạn hiện nay, trước những ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế thị trường, nhiều giá trị bị chi phối bởi đồng tiền, do đó người thầy phải biết giữ mình, tránh xa mọi cám dỗ tầm thường, giữ cho tâm hồn trong sáng, mọi hành vi phải nâng lên thành văn hóa trong đối nhân xử thế, từ việc nhỏ nhất đến việc lớn nhất. Giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ là một chiến lược quan trọng của quốc gia mà trọng trách lớn được đặt trên vai những nhà giáo. Vì vậy, thầy cô giáo chính là tấm gương để học sinh noi theo. Khi tấm gương ấy thực trong sáng, thì những tiêu cực sẽ hạn chế và sớm bị loại trừ.

Nhà trường và xã hội có một mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Vì thế, đổi mới xã hội và đổi mới nhà trường luôn thúc đẩy lẫn nhau. Xã hội thay đổi đòi hỏi sự thay đổi, đáp ứng của nhà trường, và bên cạnh đó, nó cũng cung cấp cho nhà trường những điều kiện, phương tiện để hoàn thành nhiệm vụ một cách thích đáng, trong đó có cả sự ủng hộ bằng những thay đổi ở hoàn cảnh, môi trường, hành vi, hoạt động, lối sống của xã hội. Thực chất, xã hội đã phải chấp nhận sự “đổi mới” để phù hợp với những nhiệm vụ giáo dục mà nó đã đòi hỏi ở nhà trường.

Như vậy, vai trò của thầy trong nhà trường hiện đại đã được mở rộng, không chỉ là nhà sư phạm mà còn là nhà nghiên cứu hành dụng trong thực tiễn của nhà trường, nhà canh tân xã hội và người học suốt đời. Mặt khác, mỗi vai trò cũng có những chức năng nhiệm vụ mới, mở rộng và sâu sắc, tinh tế hơn khi điều kiện xã hội và trình độ của các thành viên đã được phát triển cao hơn. Điều đó cho thấy việc thúc đẩy sự phát triển của thầy là đòi hỏi có tính sống còn của nhà trường và của nghề dạy học cũng như của chính người thầy.

RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC NGƯỜI THẦY

Nhìn lại nền giáo dục nước nhà, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta xác định: “giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Vì thế, trong những năm qua, chúng ta đã chú trọng việc “bảo đảm đủ số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo ở tất cả các cấp học, bậc học”. 

Bên cạnh những người thầy ngày đêm âm thầm cống hiến cho sự nghiệp trồng người của dân tộc, hun đúc nên sự vẻ vang của nền giáo dục nước nhà nói chung và đạo đức giáo dục nói riêng thì xã hội cũng không khỏi băn khoăn, lo lắng trước những hiện tượng một bộ phận nhà giáo tha hóa về đạo đức, nhân cách. Một bộ phận nhà giáo chạy theo lối sống kiếm tiền, tự đánh mất mình, mất lòng tin của xã hội, làm hình ảnh của mình xấu dần trong mắt học trò. Đau lòng hơn, còn có những thầy cô vô tâm hành hạ, đánh đập, dùng áp lực, xúc phạm đến nhân cách học trò... Những hiện tượng đó làm cho xã hội và gia đình không khỏi hoang mang, phẫn nộ và lên án gay gắt, gây ra những tác động tiêu cực ảnh hưởng không nhỏ đến niềm tin của nhân dân.

Người thầy luôn phải là một chuẩn mực đạo đức để xã hội noi theo, là “kiến trúc sư trí tuệ” tạo ra thế hệ tương lai cho đất nước. Cũng đã có nhiều cách ví von như “Một người công nhân tồi có thể làm hỏng một vài sản phẩm, một người kỹ sư tồi có thể làm hỏng một vài công trình nhưng một nhà giáo tồi có thể làm hỏng cả một thế hệ!”. Điều đó quả không sai, người thầy tồi sẽ đem lại hậu quả khôn lường mà cả xã hội phải gánh chịu cho đến tận mai sau. Sinh thời, Bác Hồ đã nhận định: “Có thầy giỏi thì rồi sẽ có phương pháp hay, do đó, sẽ có trò giỏi, còn thầy đã kém thì khó lấy gì bù đắp nổi”.

Chính vì vậy, để nâng cao phẩm chất đạo đức của nhà giáo, mỗi một thầy, cô giáo phải hiểu, thấm nhuần tư tưởng và đạo đức của Hồ Chí Minh về giáo dục; mỗi người phải không ngừng rèn luyện để hoàn thiện lối sống, nhân cách của mình; sống có tấm lòng nhân ái, làm việc có trách nhiệm với danh dự nghề nghiệp và xã hội.

Trong nhiều thập kỷ qua, các nhà nghiên cứu và các nhà giáo dục đều chỉ ra rằng nhà giáo chính là yếu tố có tính quyết định đến chất lượng và hiệu quả giáo dục. Để làm được điều đó, người thầy cần phải có “Tâm” “tài” Đức”  như sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong muốn. Ngày nay, vai trò của người thầy có những thay đổi theo hướng đảm nhiệm nhiều chức năng hơn: đó là chức năng của nhà giáo dục, nhà văn hóa, nhà nghiên cứu và người học. Ở nước ta, ngoài những xu hướng chung của toàn cầu hóa, người thầy phổ thông còn đứng trước việc thực hiện đổi mới chương trình và sách giáo khoa. Điều này lại càng đòi hỏi người thầy phải đáp ứng những yêu cầu mới, cao hơn, nặng nề hơn. Và để thực hiện được Đề án “Đổi mới Chương trình và Sách giáo khoa”, mỗi nhà giáo cần phải tự mình nỗ lực rèn luyện đạo đức, lối sống và nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ nhiều hơn, đồng thời ngành giáo dục cũng phải có những chính sách phù hợp để hỗ trợ người thầy giáo thực hiện tốt nhiệm vụ của mình trong bối cảnh mới.

Người thầy phải luôn: “Nói không với vi phạm đạo đức nhà giáo”, “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương tự học, tự rèn luyện”. Mặt khác, người thầy phải ngày đêm trau dồi kiến thức, kinh nghiệm của bản thân để truyền lửa cho thế hệ mai sau, cho sự nghiệp trồng người. Đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục càng phải nhận thức đúng đắn vai trò, bổn phận và trách nhiệm to lớn của mình; ra sức thi đua, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nặng nề nhưng hết sức vẻ vang của sự nghiệp trồng người mà Ðảng, nhân dân đã tin yêu và giao phó.

Hơn lúc nào hết, chúng ta cần xây dựng đội ngũ những người làm công tác giáo dục có đầy đủ phẩm chất, năng lực, vừa “hồng”, vừa “chuyên” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy. Điều này không những để khẳng định tri thức, trình độ phát triển giáo dục của dân tộc, mà còn góp phần quan trọng cho thắng lợi của công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, xây dựng và phát triển đất nước./.

Tô Bá Trượng
Viện Nghiên cứu Hợp tác Phát triển giáo dục

PGS. TS. Nguyễn Mạnh Hưởng (Trường Đại học Sư phạm):

ĐƯA HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM TRỞ THÀNH NỘI DUNG HỌC TẬP BẮT BUỘC TRONG NHÀ TRƯỜNG

Trong quá trình đổi mới, bên cạnh vai trò, trách nhiệm của những người quản lý, cơ sở đào tạo, mỗi thầy cô giáo cần nhận thức rõ trách nhiệm của mình là người đóng vai trò trực tiếp trong công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện. Theo định hướng của chương trình giáo dục phổ thông mới, nền giáo dục Việt Nam sẽ chuyển đổi từ dạy học tiếp cận nội dung là chủ yếu sang tiếp cận năng lực. Điều này có nghĩa, mọi giáo viên phải thay đổi cả về nhận thức và hành động cụ thể, phải tham gia các đợt bồi dưỡng, kết hợp tự bồi dưỡng để tiếp cận được quan điểm và chương trình mới, phương pháp dạy học mới… Những giáo viên không đáp ứng được yêu cầu đều không được sử dụng vào quá trình đổi mới.

Cũng cần tránh suy nghĩ tiêu cực là loại bỏ sạch trơn các hình thức, phương pháp dạy học truyền thống có hiệu quả đã được kiểm chứng qua thực tiễn, được nhiều nhà nghiên cứu giáo dục thừa nhận. Quá trình đổi mới phương pháp dạy học cũng cần phải chọn lọc, cải tiến và phát huy giá trị của các hình thức tổ chức hoạt động, các phương pháp, kỹ thuật dạy học….

Để hình thành và phát triển được năng lực cho học sinh về một lĩnh vực nào đó, giáo viên cần phải thông qua tổ chức những hoạt động cụ thể. Hoạt động ấy phải có mục tiêu, hướng dẫn cách tiếp cận nguồn tài liệu khi giải quyết vấn đề, có định hướng sản phẩm đầu ra sau khi kết thúc hoạt động… Chính vì vậy, chúng tôi ủng hộ quan điểm chương trình giáo dục phổ thông mới đưa hoạt động trải nghiệm trở thành nội dung học tập bắt buộc trong nhà trường.

 

ThS. Phùng Thị Thu Trang (Viện Khoa học giáo dục Việt Nam):

KỸ NĂNG ĐỂ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH

Trong giai đoạn thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục nước ta, điều khó nhất của nghề giáo không phải là trao truyền kiến thức mà là phát triển năng lực của học sinh. Để làm được điều đó, mỗi thầy cô giáo phải luôn chú trọng tính mô phạm và đạo đức nhà giáo, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Dạy các cháu thì nói với các cháu chỉ là một phần, cái chính là phải cho các cháu nhìn thấy, cho nên những tấm gương thực tế là rất quan trọng. Muốn dạy cho trẻ em thành người tốt thì trước hết các cô, các chú là người tốt”.

Người giáo viên cần vận dụng các nhóm kỹ năng như: tư duy sáng tạo, tư duy phản biện, giải quyết vấn đề, ra quyết định và học tập suốt đời; nhóm kỹ năng làm việc như khả năng giao tiếp và hợp tác làm việc theo nhóm; sử dụng các công cụ làm việc; các kỹ năng mềm khác để sống và làm việc, thực hiện trách nhiệm cá nhân và xã hội. Cần biến các kỹ năng thành những việc làm thực tế trong hoạt động giáo dục nhằm định hướng đúng và phát triển năng lực học sinh của mình. Xây dựng các dự án, các kế hoạch hoạt động để học sinh có nhiều cơ hội chủ động tìm tòi, khám phá trải nghiệm và kiến tạo kiến thức.

Song song với đó, thầy cô giáo cũng cần được trang bị các phương pháp và kỹ thuật đánh giá tích cực, khách quan theo hướng mở. Bởi đây là yếu tố góp phần quyết định trong việc kích thích sự thành công của các em học sinh. Qua đó, sẽ khuyến khích học sinh tiếp tục rèn luyện và phấn đấu, có niềm tin để khắc phục và vượt qua khó khăn, tạo nên nền tảng vững chắc cho những định hướng tiếp sau đó của cả giáo viên và học sinh.

Một người giáo viên yêu nghề, yêu trò và sáng tạo là người biết tận dụng từng giờ giảng của mình để “thu nhỏ thế giới, lồng ghép tri thức của nhân loại” đưa vào tâm trí và thế giới quan của học trò. Cần lan tỏa hiệu ứng tích cực của giờ học ra bên ngoài lớp học, ở mọi không gian mà học trò của họ tham gia vui chơi, khám phá. Như thế, mọi kiến thức sẽ được các thế hệ học trò đón nhận với tâm thế chủ động, tích cực.

 

Giảng viên Nguyễn Văn Bình (Trường Đại học Thủ đô Hà Nội):

THẦY CÔ GIÁO PHẢI ĐẠT CHUẨN VỀ TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN NGHỀ NGHIỆP

Bộ Giáo dục và Đào tạo đang triển khai lộ trình thực hiện chương trình, sách giáo khoa mới, bắt đầu từ năm học 2020-2021, cụ thể là: Năm học 2020-2021 đối với lớp 1; Năm học 2021-2022 đối với lớp 2 và lớp 6; Năm học 2022-2023 đối với lớp 3, lớp 7 và lớp 10; Năm học 2023-2024 đối với lớp 4, lớp 8 và lớp 11; Năm học 2024-2025 đối với lớp 5, lớp 9 và lớp 12. Theo chương trình sách giáo khoa mới, trong một địa phương, các trường có thể dùng nhiều bộ/cuốn sách khác nhau; giáo viên có thể dùng cùng lúc nhiều sách khác nhau; học sinh có thể tham khảo nhiều sách khác nhau của một môn… Đó là một thuận lợi nhưng cũng là một thách thức đối với các thầy cô giáo. Với chương trình giáo dục theo định hướng phát triển năng lực, sách giáo khoa không quan trọng như trước nữa; chương trình và yêu cầu cần đạt của chương trình mới là điểm quan trọng nhất.

Để đáp ứng được những yêu cầu đổi mới trong quá trình triển khai thực hiện chương trình, sách giáo khoa mới, nhằm đạt được mục tiêu của giáo dục phổ thông, các thầy cô giáo phải thật sự cố gắng vượt qua chính mình để đáp ứng đạt chuẩn về trình độ chuyên môn nghề nghiệp. Giáo viên phải thực sự có lý tưởng nghề nghiệp, yêu nghề và nắm vững kiến thức chuyên môn được đào tạo; tích cực, chủ động học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Thường xuyên tìm tòi, bổ sung những tri thức chuyên môn mới thuộc lĩnh vực mình dạy ở các nguồn khác nhau nhằm bổ sung bài giảng, cung cấp thêm cho học sinh những tri thức mới, gieo vào tâm hồn các em tình cảm với môn học. Dẫn dắt hướng dẫn, định hướng học sinh biết thu nhận, tìm kiến thức một cách chủ động, tự giác, tích cực. Từ đó, nâng cao ý thức tự giác, tự học, tự khám phá tri thức mới về môn học cho học sinh, để các em bộc lộ được năng lực của bản thân.

Thầy cô giáo phải thường xuyên đổi mới phương pháp dạy học. Tùy theo nội dung từng bài mà lựa cho phương pháp, kỹ thuật, hình thức dạy học phù hợp. Việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực phải mềm dẻo, linh hoạt nhằm đáp ứng được các mục tiêu, hiệu quả của bài dạy đồng thời phải tăng được tính hấp dẫn của môn học, kích thích được ở các em ý muốn ham hiểu biết, thích khám phá tri thức mới./.