1. Đánh giá đúng đắn vai trò của trí thức, ngay từ năm 1930, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận động, tập hợp tầng lớp trí thức, xây dựng khối đoàn kết rộng rãi các giai cấp, các tầng lớp nhân dân yêu nước…; hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v.. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp(1). Chính vì thế, đông đảo trí thức trẻ yêu nước và tiến bộ như Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Đức Cảnh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, v.v.. đã hòa mình vào phong trào đấu tranh yêu nước, chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp giành độc lập dân tộc, làm nên Cách mạng tháng Tám, sáng lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà lãnh đạo đi đầu trong tìm kiếm và trọng dụng nhân tài phục vụ “ích nước, lợi dân”, dù họ xuất thân từ thành phần giai cấp nào. Ngay sau khi tuyên bố sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người đã gửi thư kêu gọi người tài đức tham gia phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, đóng góp cho sự nghiệp cách mạng. Đi theo tiếng gọi của Người, đông đảo trí thức, trong đó có không ít trí thức nổi tiếng đang sống và làm việc ở nước ngoài về nước, tham gia vào chính quyền non trẻ, giúp sức cho Chính phủ từng bước chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, chống lại “giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm”. Những trí thức tiêu biểu nhất có thể kể đến như: Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Văn Tố, Phạm Khắc Hòe, Vũ Đình Hòe, Tạ Quang Bửu, Hồ Đắc Di, Đặng Văn Ngữ, Phạm Ngọc Thạch, Tôn Thất Tùng, Trần Đại Nghĩa, Nguyễn Xiển, Hồ Đắc Di, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Đình Thi, Xuân Diệu, v.v…
Đảng ta vẫn nhất quán thực hiện nguyên tắc: “Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”, coi “Trí thức là vốn quý của dân tộc. Không có trí thức hợp tác với công nông thì cách mạng không thể thành công…”. Nhờ đó, đã cổ vũ lớp lớp trí thức hăng hái tình nguyện nhập ngũ, “xếp bút nghiên” lên đường chiến đấu, cùng với quân dân cả nước giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.
Sau ngày thống nhất đất nước đến nay, đội ngũ trí thức tiếp tục được Đảng, Nhà nước quan tâm, trọng dụng, coi là chỗ dựa quan trọng trong quá trình hoạch định và thực hiện thành công đường lối, chính sách. Những phản biện, tham vấn của đội ngũ trí thức là nền tảng cho công cuộc đổi mới đất nước.
Để chuẩn bị cho Đổi mới, ngay từ cuối năm 1985, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Đảng, một số tổ, nhóm, tiểu ban (gồm những trí thức, chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý giỏi) đã tập trung nghiên cứu những vấn đề có tính chiến lược, cấp bách, quan trọng của đất nước. Ở trong nước, những trí thức tiêu biểu như Hoàng Tùng, Đào Duy Tùng, Phạm Như Cương, Hà Nghiệp, Trần Đức Nguyên, Lê Văn Viện...; từ nước ngoài, các chuyên gia Việt kiều như Vũ Quang Việt, Ngô Quang Long, Cao Huy Thuần, Trần Văn Thọ... đã có những tiếng nói và đóng góp quan trọng vào quá trình kiến tạo công cuộc Đổi mới.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đánh giá đúng và ghi nhận những công lao, đóng góp quan trọng, quý báu của đội ngũ trí thức, đồng thời thường xuyên quan tâm và tạo mọi điều kiện để đội ngũ này ngày càng phát triển. Điều đó được minh chứng bằng những chủ trương, nghị quyết cụ thể, tiêu biểu như Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Nghị quyết số 20-NQ/TW khóa XI về “Phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, Nghị quyết số 29-NQ/TW khóa XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, đặc biệt là Nghị quyết số 27-NQ/TW khóa X về “Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”…
Để phát huy và phát triển đội ngũ trí thức, Đảng nhất quán quan điểm và giải pháp : “Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của trí thức vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của trí thức. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến; có chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nước”(3).
Đại hội XII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh phải tôn vinh xứng đáng những cống hiến của trí thức; có cơ chế, chính sách đặc biệt để thu hút nhân tài... Theo đó, nhiều cơ chế, chính sách ưu tiên phát triển đội ngũ trí thức đã được Đảng và Nhà nước ban hành, thực thi, góp phần thu hút được những trí thức có trình độ cao. Đặc biệt, không chỉ ở trong nước mà nhiều trí thức người Việt Nam ở nước ngoài đã nhiệt tình đóng góp tâm sức, tham gia hiến kế, hoạch định chính sách, quản lý nhà nước, hợp tác đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ.
Nhằm khuyến khích, tôn vinh những trí thức có thành tích xuất sắc, hàng năm, Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, bộ, ngành và nhiều cấp ủy đảng, chính quyền đã chú trọng công tác thi đua khen thưởng thông qua việc thường xuyên tổ chức xét tặng danh hiệu vinh dự và giải thưởng nhà nước cho trí thức, văn nghệ sĩ như Giải thưởng Hồ Chí Minh, các danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân, Nghệ sĩ ưu tú, Giải thưởng Tạ Quang Bửu về khoa học và công nghệ; Giải thưởng Trần Đại Nghĩa về khoa học và công nghệ, hội nghị tôn vinh trí thức khoa học và công nghệ tiêu biểu; Giải thưởng Sáng tạo khoa học và công nghệ Việt Nam (VIFOTEC)…
3. Những thành tựu quan trọng đạt đượt của đất nước ta trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là những năm gần đây là “tổng hòa” của nhiều yếu tố, lĩnh vực, trong đó phải kể đến sự “góp sức” của đội ngũ trí thức.
Khoa học tự nhiên đã có bước phát triển trong nghiên cứu cơ bản, tạo tiền đề hình thành một số lĩnh vực khoa học và công nghệ đa ngành mới như vũ trụ, y sinh, nano, hạt nhân; một số lĩnh vực có thế mạnh như toán học, vật lý lý thuyết đạt thứ hạng cao trong khu vực ASEAN.
Đội ngũ trí thức đã và đang tích cực tham gia bảo tồn gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc, đồng thời tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa, văn minh của nhân loại.
Văn học nghệ thuật đã tiếp tục phát triển, nỗ lực phản ánh chân thực cuộc sống, bước đầu tạo dựng nên một diện mạo mới của văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại; các nhà văn Việt kiều, người Việt ở nước ngoài đã có nhiều tác phẩm được xuất bản tại Việt Nam, bước đầu chứng tỏ sự hội nhập của bộ phận văn học người Việt ở nước ngoài vào đời sống văn học trong nước, thể hiện tinh thần hòa hợp dân tộc cũng như xu thế toàn cầu hóa, dân chủ hóa của văn học đương đại Việt Nam.
Đội ngũ trí thức cũng đóng vai trò rất quan trọng trong sưu tầm, nghiên cứu, phổ biến và truyền dạy vốn văn hóa - văn nghệ dân gian các dân tộc Việt Nam; góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa, văn nghệ mang đậm bản sắc dân tộc.
Việc ứng dụng công nghệ mới đã giúp chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, tăng giá trị sản xuất, đưa nước ta vào nhóm các nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về gạo, cà phê, hạt tiêu, điều, cao su.
Những thành tựu nổi bật trong y học đã góp phần to lớn vào sự nghiệp bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân. Vai trò và vị thế nền y tế Việt Nam ở một số lĩnh vực đã được nâng cao ngang tầm các nước trong khu vực và trên thế giới như: ghép tạng, công nghệ tế bào gốc, y học hạt nhân, nội soi can thiệp, điện quang can thiệp, hỗ trợ sinh sản, an toàn truyền máu, hồi sức cấp cứu, văc-xin và sinh phẩm(4).
Trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh, đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt tham gia xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại và tiến thẳng hiện đại trong một số lĩnh vực; trực tiếp đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn an ninh trật tự.
Trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự đã tập trung nghiên cứu, thiết kế chế tạo, cải tiến hiện đại hóa các loại vũ khí, khí tài, nâng cao uy lực, độ chính xác, khả năng cơ động, phù hợp với điều kiện môi trường và địa bàn tác chiến đặc thù. Cùng với đó là nhiều thành tựu về y dược quân sự đạt trình độ so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới có nền y học tiên tiến.
Đội ngũ trí thức công an nhân dân đã tập trung nghiên cứu những vấn đề phức tạp và mới do thực tiễn đặt ra như: an ninh phi truyền thống, chiến tranh mạng, tội phạm phi truyền thống, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm công nghệ cao...
Sau hơn 30 năm Đổi mới, “Đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”(2), góp phần nâng cao đời sống kinh tế xã hội, cải thiện vị thế nước ta trên trường quốc tế. Xây đắp nên diện mạo mới này là công sức của toàn Đảng, toàn dân, trong đó có vai trò đặc biệt quan trọng của đội ngũ trí thức dân tộc.
|
Tuy nhiên, nhìn lại quá trình tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng về phát triển đội ngũ trí thức từ năm1986 đến nay, phải thẳng thắn thừa nhận, vẫn còn một số chủ trương, đường lối của Đảng chậm được thể chế hóa thành cơ chế, chính sách; thiếu một chiến lược tổng thể về phát triển đội ngũ trí thức trong bối cảnh, tình hình mới; một số quy định chưa được triển khai, hoặc triển khai nhưng chưa đạt được mục tiêu đặt ra.
Việc huy động các nguồn lực đầu tư cho xây dựng đội ngũ trí thức chưa được quan tâm đúng mức; môi trường làm việc, chế độ đãi ngộ chưa thỏa đáng; ở một số nơi, việc thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của trí thức còn hạn chế. Sự phát triển đội ngũ trí thức về số lượng, chất lượng còn nhiều bất cập, nhất là còn rất thiếu các trí thức đầu ngành, tổng công trình sư, trí thức có khả năng chủ trì thực hiện các chương trình, dự án nghiên cứu lớn. Về cơ cấu, cũng còn bất hợp lý, ví dụ như có tới 92,2% cán bộ có trình độ tiến sĩ trở lên tập trung ở 2 thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, trong khi đó tỉ lệ này ở các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và Nam Bộ rất thấp...
Công tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ ở nhiều viện nghiên cứu, trường đại học, cao đẳng còn nhiều bất cập, chưa gắn với hoạt động sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội. Đóng góp của đội ngũ trí thức nhìn chung vẫn chưa tương xứng với yêu cầu của đất nước và tiềm lực của đội ngũ trí thức, chưa giải đáp kịp thời nhiều vấn đề của thực tiễn đặt ra… Vẫn còn một bộ phận trí thức chưa ý thức rõ trách nhiệm của mình đối với đất nước. Cá biệt, còn một số cá nhân, nhóm trí thức chưa mạnh dạn, thẳng thắn bày tỏ chính kiến, hoặc lợi dụng danh nghĩa trí thức đưa ra các ý kiến, quan điểm trái chiều, không đồng thuận với đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước.
4. Trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức, đội ngũ trí thức là hạt nhân của đổi mới sáng tạo, đi đầu trong việc nghiên cứu, ứng dụng, tiếp nhận và chuyển giao các tiến bộ khoa học công nghệ ở nhiều lĩnh vực khác nhau, tạo động lực quyết định cho sự phát triển nhanh và bền vững. Để phát huy vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức trong thời gian tới, cần tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa một số nhiệm vụ sau:
Một là, tiếp tục quán triệt, tăng cường công tác tuyên truyền, kiểm tra, giám sát, tổ chức thực hiện nghiêm túc, đồng bộ có hiệu qủa các nghị quyết của Đảng về phát triển đội ngũ trí thức. Nâng cao nhận thức, tạo sự thống nhất cao trong hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân về chủ trương nhất quán phát triển đội ngũ trí thức của Đảng và Nhà nước: “Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị; đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững” (Nghị quyết 27-NQ/TW).
Hai là, nâng cao trách nhiệm và đóng góp của đội ngũ trí thức, kiện toàn hệ thống tổ chức của các hội trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong thời kỳ mới. Tăng cường sinh hoạt tư tưởng đối với trí thức, đặc biệt là trí thức đầu ngành, trí thức trẻ; nâng cao ý thức chính trị và trách nhiệm của đội ngũ này. Nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn, phản biện, giám định xã hội và hoạt động tuyên truyền phổ biến kiến thức của các hội trí thức.
Lực lượng khoa học và công nghệ trong nước có khả năng thiết kế, chế tạo thành công nhiều công nghệ, thiết bị nội địa đạt tiêu chuẩn quốc tế; có năng lực hấp thụ và làm chủ công nghệ mới, công nghệ cao trong một số ngành thiết yếu như điện, điện tử, dầu khí, đóng tàu, xây dựng, y tế, công nghệ thông tin và truyền thông. Những thành tựu trong nghiên cứu, điều tra điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và môi trường đã góp phần tạo luận cứ cho việc xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. |
Ba là, tiếp tục hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách, pháp luật trọng dụng trí thức, người hiền tài; tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho việc tổ chức diễn đàn khoa học chuyên nghiệp. Xây dựng quy chế dân chủ trong hoạt động khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, văn hóa - văn nghệ; tôn trọng và phát huy tính tự chủ trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, tư vấn, phản biện của trí thức, nhà khoa học. Xây dựng cơ chế đặc thù về đầu tư, đãi ngộ đối với trí thức theo nhiệm vụ và sản phẩm sáng tạo, phù hợp với từng đối tượng.
Bốn là, đẩy mạnh huy động và đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư cho xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức. Nhà nước ưu tiên cân đối nguồn vốn đầu tư phát triển về hạ tầng, môi trường làm việc phục vụ các hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của trí thức; sớm đầu tư xây dựng các tổ hợp khoa học - sản xuất, các trung tâm văn hóa hiện đại cho các vùng kinh tế - xã hội của cả nước nhằm thúc đẩy nghiên cứu, hấp thụ, chuyển giao và truyền bá tri thức phục vụ phát triển đất nước.
Năm là, sớm xây dựng Chiến lược Quốc gia về phát triển đội ngũ trí thức giai đoạn 2021-2030 phù hợp với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn mới; chú trọng đến những ngành, lĩnh vực đang thiếu, mất cân đối, bất hợp lý về cơ cấu; ưu tiên phát triển đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số, trí thức nữ; ưu tiên những ngành, lĩnh vực đáp ứng yêu cầu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Trước các biến động nhanh chóng của tình hình quốc tế và trong nước, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước luôn đặt ra nhiều vấn đề mới cần hoàn thiện, bổ sung, phát triển. Điều này có liên quan mật thiết và tất yếu vào sự tham gia, đóng góp của đội ngũ trí thức, các nhà khoa học. Đảng, Nhà nước và nhân dân luôn trân trọng và kỳ vọng vào đội ngũ những người có “tâm sáng trí cao” - thực sự là “nguyên khí quốc gia” trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh, bền vững của đất nước./.
PGS. TS. Phạm Ngọc Linh
Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ, Ban Tuyên giáo Trung ương
------------------------------------
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2002, t.2, tr.4.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2016, tr.65.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 6-8-2008 Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X về Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
(4) Bộ Y tế: Báo cáo Sơ kết 05 năm thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW khóa XI về Phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, 2017.